Thông báo:

Nhớ Like or share, comment nhiệt tình nếu thấy bài viết bổ ích nhé! tks mọi người

Web liên quan Web Tang Like+ View Choi game online Lop hoc tieng nhat Gunny Free

Thursday, January 1, 2015

Biến âm khi chia động từ

Biến âm khi chia động từ

Bạn hãy tham khảo cách chia động từ tiếng Nhật trong bài Chia động từ tiếng Nhật.
Công thức TE/DE FORM:

Vて = V(ます)て ⊕ BIẾN ÂM

Tức là động từ chia dạng masu, bỏ masu, thêm "te" thành V(masu)te rồi biến âm.

Động từ 1 đoạn thì chỉ cần bỏ "ru" る và thêm "te" て. Bởi vì dạng "masu" của động từ 1 đoạn cũng là bỏ る và thêm ます "masu".
Còn động từ 5 đoạn thì trong bài viết cũ mình có nói cách chia sau:
u, ru, tsu -> "tte":
言う(いう):言って(いって)
帰る(かえる):帰って(かえって)
立つ(たつ):立って(たって)
Riêng:
su -> "shite": 刺す(さす) → 刺して(さして) (đâm)
mu, nu -> "nde": 飲む → 飲んで(のんで) (uống), 死ぬ(しぬ)→死んで(しんで) (chết)
gu -> "ide": 泳ぐ(およぐ) → 泳いで(およいで) (bơi)
ku -> "ite": 除く(のぞく) → 除いて (のぞいて) (trừ ra)

Tức là, dạng te/de form thường sẽ là って tte (âm lặp), hay して shite, んで "nde", いで ide, いて ite. Chúng ta hãy xem lý do một chút:
言う(いう) => iimasu => iite, nhưng iite có âm dài "ii" rất khó phát âm, nên phát âm thành って tte với âm lặp sẽ dễ hơn => itte
帰る(かえる)kaeru  => kaerimasu => kaerite, nhưng phát âm "ri" khó và dễ bị nuốt, nên nó cũng thành âm lặp "tte" => kaette
立つ(たつ)tatsu => tachimasu => tachitte, nhưng "chi" là âm gió rất khó phát âm rõ nên cũng thành âm lặp って tte => tatte
刺す(さす) sasu => sashimasu => sashite: Cái này thì khỏi nói vì nó chỉ là V(ます)て
飲む(のむ)nomu => nomimasu => nomite, chữ "mite" khó phát âm và khi nói nhanh sẽ nghe thành "nde" => nonde
死ぬ(しぬ)shinu => shinimasu => shinite, chữ "nite" cũng khó phát âm (như "mite") và dễ nghe thành "nde" => shinde
泳ぐ(およぐ)oyogu => oyogimasu => oyogite (đọc ô-yô-ghi-tê), chữ "ghi-tê" khó phát âm và dễ nghe thành "ide" => oyoide
除く(のぞく)nozoku => nozokimasu => nozokite, chữ "ki" có âm dó và rất khó đọc rõ mà nghe như "k'i" và cuối cùng nghe như "ite" => nozoite

Bảng chia động từ mới (có quy tắc) của Takahashi - 2014

Riêng する、行く、来る thì là động từ đặc biệt và cách chia hơi khác (nhưng cũng hợp lý!). Bạn hãy tham khảo trong bài chia động từ.

Biến âm này có trong rất nhiều ngôn ngữ. Ví dụ trong tiếng Hàn, thì tiếng Hàn 韓国語 Kankokugo (Hàn Quốc Ngữ) là 한국어, từng chữ một là Han + Guk + Eo (eo đọc như "o" trong tiếng Việt, còn "o" trong tiếng Hàn đọc như "ô" tiếng Việt). Nhưng do âm cuối "k" của Guk đi trước nguyên âm của Eo nên sẽ biến âm thành Hangugo, tức là Han + Gu + Go (lưu ý là viết "g" trong tiếng Hàn nhưng đọc gần giống "k" tiếng Việt). Nhưng cách này đọc vẫn khó và cách đọc thực tế lại là Hangunggo, tức là Han + Gung + Go.

Tiếng Việt cổ ngày xưa (tiếng Mường) không nói là "trời" mà là "bờ lời" hay "b'lời" nhưng do âm "b" đọc tốn hơi quá mà nói thành "t'lời" chăng, và để đỡ tốn hơi hơn nữa thì thành "t'rời" = trời cho tiện. Đây cũng là hiện tượng đơn giản hóa âm tiết cho dễ đọc, tức là biến âm.

Chọn cách nói dễ nhất

Một trong cách đặc điểm của ngôn ngữ mà Takahashi nhận thấy là người ta sẽ chọn cách nói đơn giản nhất cho đối phương có thể hiểu. Ví dụ, tiếng Việt nói là "thông minh" (聡明 Soumei) nhưng tiếng Nhật sẽ nói là:

頭がいい Atama ga ii (nghĩa đen: Đầu tốt)

Tiếng Nhật cũng có từ 聡明 đấy chứ, đó là tính từ 聡明な Soumei-na, nhưng từ này thường chỉ ý là thông minh lanh lợi hay hoạt bát. Tại sao lại không dùng 聡明な Soumei-na thay cho 頭がいい Atama ga ii?
Tôi nghĩ là do vai trò khác nhau một chút, vì 聡明な Soumei-na đã dùng cho nghĩa lanh lợi, hoạt bát rồi. Ngoài ra, nói Atama ga ii thì sẽ DỄ HIỂU HƠN khá nhiều vì không cần dùng tới chữ kanji ít dùng.

Một ví dụ kinh điển khác là chữ 場合 Ba'ai (Trường hợp). Chữ này cũng có nghĩa là "trường hợp" giống hệt tiếng Việt. Nhưng tại sao lại đọc là "ba'ai", tức là theo cách đọc thuần Nhật (kun-yomi) mà không đọc theo Hán Nhật on-yomi như cho từ ghép kanji thông thường?
Nếu đọc theo on-yomi thì sẽ là じょうごう jougou, sẽ rất khó biết là đang nói tới chữ kanji nào vì âm đọc kanji trùng nhau rất nhiều chứ không như tiếng Nhật. Riêng chữ jou có thể có tới vài trăm chữ kanji cùng cách đọc này. (Chữ Thông Minh Soumei ở trên cũng sẽ bị trùng nhiều cách đọc Sou và Mei.)
Thật ra, ban đầu tôi nghĩ nó là じょうごう jougou nhưng hiệu quả truyền đạt không cao, và cứ phải giải thích lại và rốt cuộc là nếu nói là ばあい Ba'ai thì dễ hiểu hơn nhiều, lại dễ đọc nên mọi người đều đọc 場合 (trường hợp) là ba'ai.

Đây là cách đọc thuần Nhật vì 場 đọc là "ba", tức là nơi, chỗ, place. Còn chữ Hợp 合 thì các bạn đều biết cách đọc của nó là "ai". Động từ là 合う au, tức là "hợp, thích hợp, phù hợp, ...".

Chữ "Hiện trường" 現場 Gemba cũng đọc là "ba" thay vì げんじょう Genjou vì đọc Gemba sẽ dễ đọc, dễ hiểu hơn. Chú ý là nó là げんば Genba nhưng biến âm "n" => "m" thành Gemba vì dễ đọc hơn.

Như vậy, quá trình phát triển tiếng Nhật cũng là chọn cách nói sao cho dễ nói nhất, dễ hiểu nhất, giúp cho hiệu quả truyền đạt là cao nhất.

Một từ nữa điển hình cho điều này là từ "Thủ tục" 手続き, đọc là Tetsuzuki. Có thể viết gọn là 手続. Chữ kanji này là "Thủ Tục" và nghĩa là thủ tục (procedure) như tiếng Việt. Nếu đọc âm "on-yomi" thì là しゅぞく Shuzoku, nhưng cách này khó đọc và rất dễ nhầm sang các chữ kanji khác trùng âm đọc vốn có rất nhiều. Ngay cả Shuzoku đã có thể bị trùng là  種族 Shuzoku (Chủng tộc), 習俗 Shuzoku (Tập tục), 集簇 Shuzoku.

Nhưng nếu đọc theo âm kun-yomi (thuần Nhật) thành てつづき Tetsuzuki thì lại có thể biết rất nhanh đó là chữ kanji 手続. Và cuối cùng, nó trở thành "tetsuzuki" và nghĩa vẫn là "thủ tục" như nghĩa kanji ban đầu.

Hi vọng các bạn sẽ hiểu hơn về từ vựng tiếng Nhật!
Chia sẻ

Unknown

0 nhận xét:

Post a Comment

Copyright @ 2013 Học Tiếng Nhật 123 .Blogspot. Designed by Templateism | Love for The Globe Press