Tiếng Nhật là gì? Giải mã tiếng Nhật
Để học tiếng Nhật, có lẽ chúng ta phải giải mã một chút những điều bí ẩn về nó. Hôm nay Takahashi sẽ diễn giải ngôn ngữ tiếng Nhật một cách đơn giản, dễ hiểu nhất có thể. Cùng với đó, tôi cũng sẽ so sánh với tiếng Việt để các bạn thấy rằng hai ngôn ngữ ... không khác nhau nhiều.
Bổ ngữ (修飾語 shuushokugo, kanji: tu sức ngữ) là từ ngữ dùng để bổ nghĩa (làm rõ nghĩa) cho một từ ngữ khác, tiếng Anh gọi là modifier. Ví dụ: "Kia là bông hoa tôi mua" thì "tôi mua" bổ nghĩa cho "bông hoa".
Bổ ngữ tiếng Nhật luôn đứng trước từ được bổ ngữ, ví dụ:
=> Mấu chốt: Khi đã là cụm từ quen thuộc thì ít dùng trợ từ "no"; ngoài ra dùng "no" nhiều quá cũng khiến câu văn lủng củng.
サイゴンの夜 Saigon no yoru = Đêm Sài Gòn; ở đây "yoru" (đêm) đứng cuối là danh từ chính
夜のサイゴン yoru no Saigon = Sài Gòn của ban đêm, Sài gòn về đêm => "Saigon" là danh từ chính
Danh từ chính luôn đứng cuối và khi chuyển sang tiếng Việt chúng ta phải để đầu tiên rồi mới tới các bổ ngữ.
Nếu bạn không ý thức được điều này bạn sẽ dễ hiểu sai hay dịch nhầm. Tôi sẽ đưa ra ví dụ sau:
Nhiều bổ ngữ
Ví dụ:
昨日市場で買った赤い花 kinou ichiba de katta akai hana = bông hoa màu đỏ tôi mua ở chợ hôm qua
Ở đây "hana" (hoa) có 2 bổ ngữ: "tôi mua ở chợ hôm qua" (kinou ichiba de katta) và "màu đỏ / đỏ" (akai).
Trường hợp có nhiều bổ ngữ thì sẽ thường xếp liên tiếp. Sơ đồ bổ ngữ như sau:
Bổ ngữ cho bổ ngữ
Ví dụ:
Làm rõ một từ là bổ ngữ trong tiếng Nhật
Để nhấn mạnh bổ ngữ, tiếng Việt dùng "mà":
Ví dụ:
Tương tự:
私が愛している人 watashi ga ai shite iru hito (người tôi yêu) có thể gây hiểu nhầm sang 私を愛している人 watashi wo ai shite iru hito (người yêu tôi) cho nên để chắc cú nhất thì ta nên dùng cụm sau:
Vai trò ngữ pháp khác nhau
Các bạn cũng cần biết là:
Còn 毒のあるキノコ doku no aru kinoko thì "kinoko" được bổ nghĩa bởi một bổ ngữ (tính chất) là "doku no aru", bổ ngữ kiểu này bắt buộc phải có một danh từ đi ngay sau.
- Có thể có bổ ngữ cho bổ ngữ hay thậm chí là bổ ngữ nhiều tầng
Sẽ còn tiến hóa (trong các bài tiếp theo):
Động từ tiếng Nhật:
- Động từ ý chí và động từ vô ý chí
- Ngoại động từ (Vt) và nội động từ (Vi)
Diễn đạt thì tiếng Nhật
Giải đáp câu hỏi
Sự khác nhau giữa:
三人の彼ら = ba người bọn họ ("họ" có đúng 3 người) / bọn họ ba người (làm gì đó) => "sannin" bổ nghĩa cho "karera"
Tất nhiên cả hai cũng có thể hiểu là "ba người bọn họ" (có đúng ba người) nhưng cách hiểu thông thường sẽ là như trên. Nhiều người vẫn dùng 2 trường hợp trên cùng ý nghĩa nhưng để tránh hiểu nhầm thì bạn nên phân biệt chúng.
Bổ ngữ tiếng Nhật: Đứng trước từ được bổ nghĩa (danh từ)
=> Ngược với tiếng ViệtBổ ngữ (修飾語 shuushokugo, kanji: tu sức ngữ) là từ ngữ dùng để bổ nghĩa (làm rõ nghĩa) cho một từ ngữ khác, tiếng Anh gọi là modifier. Ví dụ: "Kia là bông hoa tôi mua" thì "tôi mua" bổ nghĩa cho "bông hoa".
Bổ ngữ tiếng Nhật luôn đứng trước từ được bổ ngữ, ví dụ:
赤い花 akai hana = bông hoa đỏ, akai => hana
ベトナム学生 betonamu gakusei = học sinh Việt Nam, betonamu => gakusei
日本語修飾語 nihongo shuushokugo = Bổ ngữ tiếng Nhật (Japanese Modifier) |
Danh từ bổ nghĩa cho danh từ
Dạng thông thường sẽ dùng trợ từ "no" (の) ("của") để bổ nghĩa:
N2 の N1
Trong đó N2 bổ nghĩa cho N1.
私のお金 watashi no okane = tiền của tôi
"watashi no (của tôi)" bổ nghĩa cho "okane" (tiền).
私の父 watashi no chichi = ba tôi
Ngoài ra có thể đặt trực tiếp "N2 N1" để bổ nghĩa, ví dụ: ベトナム学生 betonamu gakusei = học sinh Việt Nam, 行政機関 gyousei kikan = cơ quan hành chính, 試用期間 shiyou kikan = thời gian thử việc, v.v...=> Mấu chốt: Khi đã là cụm từ quen thuộc thì ít dùng trợ từ "no"; ngoài ra dùng "no" nhiều quá cũng khiến câu văn lủng củng.
Danh từ chính trong tiếng Nhật: Luôn đứng cuối cùng
Ví dụ:サイゴンの夜 Saigon no yoru = Đêm Sài Gòn; ở đây "yoru" (đêm) đứng cuối là danh từ chính
夜のサイゴン yoru no Saigon = Sài Gòn của ban đêm, Sài gòn về đêm => "Saigon" là danh từ chính
Danh từ chính luôn đứng cuối và khi chuyển sang tiếng Việt chúng ta phải để đầu tiên rồi mới tới các bổ ngữ.
Nếu bạn không ý thức được điều này bạn sẽ dễ hiểu sai hay dịch nhầm. Tôi sẽ đưa ra ví dụ sau:
彼らの三人 karera no sannin
三人の彼ら sannin no karera
karera: họ; sannin: ba người
=> Các bạn có thấy sự khác nhau không? Các bạn sẽ dịch ra như thế nào? Bạn hãy thử dịch và đáp án sẽ có ở cuối bài.Nhiều bổ ngữ
Ví dụ:
昨日市場で買った赤い花 kinou ichiba de katta akai hana = bông hoa màu đỏ tôi mua ở chợ hôm qua
Ở đây "hana" (hoa) có 2 bổ ngữ: "tôi mua ở chợ hôm qua" (kinou ichiba de katta) và "màu đỏ / đỏ" (akai).
Trường hợp có nhiều bổ ngữ thì sẽ thường xếp liên tiếp. Sơ đồ bổ ngữ như sau:
昨日市場で買った => 花
赤い => 花
Bổ ngữ cho bổ ngữ
Ví dụ:
時間を忘れるほど夢中になるゲーム
jikan wo wasureru hodo muchuu ni naru geemu
trò chơi mà tôi say mê quên cả thời gian
"Geemu" (trò chơi) có một bổ ngữ là "muchuu ni naru" ("tôi say mê") nhưng để diễn tả "tôi say mê như thế nào" thì "say mê" lại có thêm bổ ngữ là "jikan wo wasureru hodo" (đến mức quên cả thời gian). Sơ đồ bổ nghĩa như sau:
時間を忘れるほど => 夢中になる => ゲーム
trò chơi <= tôi say mê <= quên cả thời gian
Làm rõ một từ là bổ ngữ trong tiếng Nhật
Để nhấn mạnh bổ ngữ, tiếng Việt dùng "mà":
Món cá tôi làm => Món cá mà tôi làm
Nhấn mạnh như vậy chúng ta sẽ làm câu nói dễ hiểu hơn rất nhiều. Tiếng Nhật cũng ... giống hệt tiếng Việt (vì thật ra mọi ngôn ngữ đều có vai trò như nhau: Phục vụ cho cuộc sống của con người).Ví dụ:
毒があるキノコ => 毒のあるキノコ
doku ga aru kinoko => doku no aru kinoko
nấm có độc => nấm độc
Tại sao lại như vậy? Bởi vì nếu nói "doku ga aru kinoko" thì lại có thể hiểu như đây là một vế câu với chủ ngữ là "doku" và vị ngữ là "aru kinoko" ("một cây nấm nào đó") và sẽ có thể gây hiểu nhầm hay phức tạp câu văn. Vì thế nếu dùng "doku no aru kinoko" thì sẽ rõ ràng "doku" ở đây là bổ nghĩa.Tương tự:
私が愛している人 watashi ga ai shite iru hito (người tôi yêu) có thể gây hiểu nhầm sang 私を愛している人 watashi wo ai shite iru hito (người yêu tôi) cho nên để chắc cú nhất thì ta nên dùng cụm sau:
私の愛している人 watashi no ai shite iru hito = người mà tôi yêu
Vai trò ngữ pháp khác nhau
Các bạn cũng cần biết là:
毒があるキノコ và 毒のあるキノコ
có cấu tạo ngữ pháp khác nhau. 毒があるキノコ doku ga aru kinoko thì "kinoko" được bổ nghĩa bởi một VẾ CÂU(Phrase, 句) là "doku ga aru".Còn 毒のあるキノコ doku no aru kinoko thì "kinoko" được bổ nghĩa bởi một bổ ngữ (tính chất) là "doku no aru", bổ ngữ kiểu này bắt buộc phải có một danh từ đi ngay sau.
Kết luận về bổ ngữ tiếng Nhật
Để hiểu sâu sắc và rõ ràng hãy phân tích câu ra thành phần chính, gồm:
- Chủ đề + [Tính chất / Hành động]
- Các bổ ngữ
- Bổ ngữ tiếng Nhật luôn đứng trước danh từ được bổ nghĩa giống tiếng Anh:
美しい景色 utsukushii keshiki = beautiful scene
Nhưng ngược tiếng Việt: cảnh đẹp
- Có thể có nhiều bổ ngữ ngang hàng cùng bổ nghĩa cho một danh từ
美しい壮大な景色 utsukushii (1) soudai na (2) keshiki = beautiful and magnificent scene
cảnh đẹp và hùng vĩ
=> Khi dịch sang tiếng Việt hay tiếng Anh thì nên có "và" ("and").- Có thể có bổ ngữ cho bổ ngữ hay thậm chí là bổ ngữ nhiều tầng
- (C) JCLASS saromalang.com -
Sẽ còn tiến hóa (trong các bài tiếp theo):
Động từ tiếng Nhật:
- Động từ ý chí và động từ vô ý chí
- Ngoại động từ (Vt) và nội động từ (Vi)
Diễn đạt thì tiếng Nhật
Giải đáp câu hỏi
Sự khác nhau giữa:
彼らの三人 karera no sannin
Và: 三人の彼ら sannin no karera
(karera: họ; sannin: ba người)
彼らの三人 = ba người trong số họ (nghĩa là "họ" có nhiều hơn 3 người) => "karera" bổ nghĩa cho "sannin"三人の彼ら = ba người bọn họ ("họ" có đúng 3 người) / bọn họ ba người (làm gì đó) => "sannin" bổ nghĩa cho "karera"
Tất nhiên cả hai cũng có thể hiểu là "ba người bọn họ" (có đúng ba người) nhưng cách hiểu thông thường sẽ là như trên. Nhiều người vẫn dùng 2 trường hợp trên cùng ý nghĩa nhưng để tránh hiểu nhầm thì bạn nên phân biệt chúng.
0 nhận xét:
Post a Comment